Hình hài Quốc gia số sau 6 tháng triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW

17:29 - 05/07/2025

6 tháng đầu năm 2025 chứng kiến diện mạo mới của một “Quốc gia số” đang hình thành rõ nét. Dưới sự dẫn dắt chiến lược của Nghị quyết 57-NQ/TW - văn kiện đột phá do Bộ Chính trị ban hành cuối năm 2024, toàn hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt, đồng bộ để thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Cổng thông tin điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới

Từ tầm nhìn mang tầm chiến lược của Tổng Bí thư Tô Lâm và Bộ Chính trị đến những kết quả cụ thể trong xây dựng thể chế, hạ tầng số, cải cách dịch vụ công, phát triển kinh tế số và đào tạo nhân lực chất lượng cao, Việt Nam đang định hình rõ “hình hài” của một quốc gia số. Những thành tựu bước đầu đầy ấn tượng sau nửa năm triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW tạo niềm tin mạnh mẽ vào mục tiêu đã đề ra, tiếp thêm quyết tâm cho chặng đường phía trước với tinh thần “kiên quyết, kiên trì, kiên định, làm cho bằng được”.

Tầm nhìn đột phá từ Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị.

Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 khẳng định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN, ĐMST&CĐS) là đột phá quan trọng hàng đầu, động lực chính để phát triển đất nước trong kỷ nguyên số. Đây là chủ trương chiến lược mang tính cách mạng, nhằm giải phóng mọi nguồn lực, thúc đẩy hiện đại hóa sản xuất, đổi mới quản trị quốc gia, tránh nguy cơ tụt hậu và đưa Việt Nam bứt phá trở thành quốc gia phát triển giàu mạnh. Đặc biệt, việc Tổng Bí thư Tô Lâm trực tiếp làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển KHCN, ĐMST&CĐS thể hiện sự quan tâm, quyết tâm rất cao của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này. Nghị quyết 57-NQ/TW đề ra những quan điểm chưa từng có: coi đầu tư cho khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là đầu tư dài hạn, chấp nhận rủi ro, đòi hỏi sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị và sự hợp lực công – tư. Mục tiêu lớn được vạch ra là đến năm 2030, Việt Nam sẽ thuộc nhóm dẫn đầu khu vực và tiệm cận nhóm 50 nước hàng đầu thế giới về hạ tầng số, công nghiệp công nghệ cao, chính phủ số và tỷ trọng kinh tế số. Tầm nhìn chiến lược này đã thổi bùng khát vọng “tăng tốc trong kỷ nguyên số”, tạo động lực mạnh mẽ cho giới khoa học công nghệ, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội chung sức hiện thực hóa. Chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở Ngay sau khi Nghị quyết 57 được ban hành, Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển KHCN, ĐMST&CĐS do Tổng Bí thư Tô Lâm đứng đầu đã nhanh chóng được kiện toàn, đề ra chương trình hành động cụ thể. Trong 6 tháng đầu năm 2025, Ban Chỉ đạo đã họp thường xuyên, ban hành Kế hoạch số 01 và 02 để triển khai Nghị quyết, phân công rõ từng nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương. Nhờ sự tham gia sát sao của người đứng đầu Đảng, Nhà nước và Chính phủ, công tác chỉ đạo diễn ra quyết liệt, dồn dập với tinh thần “thần tốc nhưng chắc chắn”. Một điểm sáng là việc đưa vào vận hành Hệ thống thông tin giám sát, đánh giá thực hiện Nghị quyết 57 và Hệ thống tiếp nhận phản ánh, kiến nghị, sáng kiến về KHCN,ĐMST&CĐS. Hai nền tảng số này cho phép theo dõi tiến độ từng nhiệm vụ một cách minh bạch, đồng thời thu thập ý kiến đóng góp rộng rãi từ người dân, doanh nghiệp, nhà khoa học, qua đó hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, khắc phục tình trạng báo cáo hình thức. Song song, Ban Bí thư đã ban hành Kiến trúc Chuyển đổi số Đảng 3.0 và quy định vận hành Hệ thống điều hành tác nghiệp điện tử trong Đảng. Điều này giúp kết nối thông suốt hệ thống chỉ đạo từ Trung ương tới tận cấp xã, tạo nền tảng cho mô hình “Đảng số”. Tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm (7/2025), Tổng Bí thư Tô Lâm biểu dương những kết quả bước đầu rất tích cực, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu “tập trung cao độ, hành động quyết liệt” trong 6 tháng cuối năm 2025 với tinh thần kiên quyết, kiên trì, kiên định, làm cho bằng được để củng cố niềm tin toàn xã hội. Sự quyết tâm từ Trung ương đã lan tỏa xuống địa phương: các tỉnh, thành phố thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số do Bí thư hoặc Chủ tịch đứng đầu, bảo đảm mỗi nhiệm vụ của Nghị quyết 57 đều được đôn đốc thực hiện đến nơi đến chốn. Chỉ trong nửa năm, “Quốc gia số” đã dần hiện hình bằng những kết quả cụ thể, thực chất, phản ánh qua các chỉ số quốc tế và trong nước.

 

Bứt phá thể chế và hạ tầng: Nền móng vững chắc cho chuyển đổi số Trước hết, Nghị quyết 57 đã tạo ra một bước tiến nhảy vọt về hoàn thiện thể chế, chính sách cho chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Chỉ trong kỳ họp thứ 9, diễn ra tháng 5-6/2025, Quốc hội đã kịp thời thông qua nhiều đạo luật mang tính đột phá, đặc biệt là Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (sửa đổi) và Luật Công nghiệp Công nghệ số, cùng với 14 luật liên quan và 3 nghị quyết của Quốc hội nhằm tạo hành lang pháp lý ưu tiên cho các lĩnh vực công nghệ chiến lược như trí tuệ nhân tạo, vi mạch bán dẫn, dữ liệu lớn, Internet vạn vật. Song song, Chính phủ cũng ban hành 16 nghị định và 1 nghị quyết để tháo gỡ rào cản thể chế, cải cách thủ tục hành chính, triển khai mô hình chính quyền số hai cấp, phân cấp phân quyền mạnh mẽ hơn cho địa phương. Đây là những cú hích chính sách chưa từng có, giúp giải quyết nhiều “điểm nghẽn” về pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các sáng kiến đổi mới sáng tạo đi vào cuộc sống. Nhờ đột phá thể chế, Đề án 06 của Chính phủ (phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia) đã đạt kết quả rõ nét, vượt xa các mục tiêu đề ra. Tính đến tháng 4/2025, các bộ, ngành đã cắt giảm, đơn giản hóa 3.241 quy định kinh doanh trên 15.763 quy định hiện hành (đạt 20,56%), vượt mục tiêu tối thiểu 20% mà Chính phủ đề ra. Hệ thống Cổng Dịch vụ công Quốc gia đã kết nối liên thông với 151 cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin khác; cung cấp trực tuyến 3.691 thủ tục hành chính (TTHC) trên tổng số hơn 6.300 thủ tục, bao gồm đầy đủ 56/76 dịch vụ công thiết yếu phục vụ người dân, doanh nghiệp. Đặc biệt, lần đầu tiên các thủ tục hành chính của Đảng (như cấp lý lịch tư pháp cho đảng viên) cũng được tích hợp lên Cổng dịch vụ công quốc gia, thể hiện tinh thần chuyển đổi số toàn diện, không chỉ trong cơ quan nhà nước mà cả trong hệ thống Đảng. Song song với cải cách thủ tục, hạ tầng kỹ thuật phục vụ chính phủ số và kinh tế số cũng được tăng cường. Từ năm 2022 đến nay, Bộ Công an đã xây dựng và vận hành Cơ sở Dữ liệu quốc gia về dân cư, cấp trên 87 triệu thẻ căn cước công dân gắn chip cho công dân đủ điều kiện, đồng thời thu nhận khoảng 70 triệu hồ sơ định danh điện tử và kích hoạt gần 50 triệu tài khoản VNeID (đạt tỷ lệ 69% hồ sơ). Nhờ dữ liệu dân cư làm nền tảng, hàng loạt tiện ích số ra đời: từ định danh, xác thực eKYC, thanh toán không dùng tiền mặt đến khám chữa bệnh không giấy tờ… Đến cuối năm 2024, Bộ Công an đã cung cấp 35 tiện ích trên ứng dụng VNeID, thu hút hơn 460 triệu lượt truy cập của người dân. Những con số này cho thấy quá trình “số hóa” quốc gia đang diễn ra sâu rộng: thuế thương mại điện tử tăng 19% chỉ trong 4 tháng đầu 2025, 1,9 tỷ hóa đơn điện tử đã được phát hành, thanh toán không dùng tiền mặt tăng 28,7% và 70% người dân đô thị đã quen dùng ví điện tử, mobile banking hàng ngày. Nhờ những nỗ lực đồng bộ đó, tỷ trọng kinh tế số của Việt Nam năm 2024 ước đạt gần 19% GDP, cao nhất từ trước tới nay, và dự kiến vượt mục tiêu 20% GDP vào năm 2025. Việt Nam hiện đứng thứ 41 thế giới về tỷ trọng kinh tế số/GDP, với tốc độ tăng trưởng hơn 20%/năm, nhanh nhất Đông Nam Á. Năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia cũng được cải thiện vững chắc: năm 2024, Việt Nam xếp hạng 44/132 nước trên bảng xếp hạng Global Innovation Index của WIPO (tăng 2 bậc so với 2023), tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Đây là những thành quả ấn tượng, cho thấy thể chế và hạ tầng đang dần bắt nhịp với yêu cầu của chuyển đổi số. Chính phủ số vươn tầm: Chuyển đổi số đồng bộ ở các địa phương Không chỉ ở Trung ương, chuyển đổi số đã lan tỏa mạnh mẽ tới tất cả các địa phương. Cấp ủy và chính quyền các tỉnh, thành phố xác định ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo là giải pháp đột phá để nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và phục vụ người dân. Đến nay, từ Trung ương đến 63/63 tỉnh, thành đều sử dụng thống nhất hệ thống họp trực tuyến và phần mềm quản lý văn bản điện tử. Văn phòng Trung ương Đảng đã triển khai phần mềm quản lý văn bản và phòng họp không giấy tới tận cấp xã, giúp lãnh đạo ở cơ sở cũng nhận tài liệu, chỉ đạo qua máy tính bảng, không còn cảnh xếp đống hồ sơ giấy như trước. Kiến trúc chính quyền điện tử và chính quyền số được xây dựng đồng bộ theo mô hình hai cấp (Trung ương – địa phương), bảo đảm 100% xã, phường kết nối vào mạng truyền số liệu chuyên dùng của Đảng và Nhà nước. Các Cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh liên thông với Cổng quốc gia, cung cấp trực tuyến hầu hết các thủ tục hành chính thường xuyên. Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến toàn trình đủ điều kiện đã đạt 97,3% vào đầu năm 2025, và mục tiêu đến năm 2025 là 100% TTHC được cung cấp trực tuyến mức 4 trên nhiều phương tiện (web, di động). Nhờ đó, người dân, doanh nghiệp có thể nộp hồ sơ, nhận kết quả giải quyết thủ tục ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Thống kê sau 4 năm vận hành, Cổng Dịch vụ công quốc gia đã xử lý 36,8 triệu hồ sơ trực tuyến; nếu tính cả hệ thống một cửa điện tử tại các địa phương, con số hồ sơ giải quyết qua mạng lên tới hàng trăm triệu, tương ứng hàng trăm triệu lượt đi lại, chờ đợi đã được cắt giảm so với trước đây. Cùng với dịch vụ công, nhiều địa phương đã sáng tạo trong chuyển đổi số phục vụ đời sống. Điển hình như Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương… triển khai ứng dụng “phòng họp không giấy” (e-Cabinet) tại các sở, huyện, xã, tích hợp camera giám sát thông minh hỗ trợ đảm bảo an ninh trật tự, hay ứng dụng di động để người dân phản ánh hiện trường, tương tác với chính quyền (như iHanoi, Hue-S,…). Những nỗ lực này đã góp phần đưa Chỉ số Chính phủ điện tử/Chính phủ số của Việt Nam năm 2024 lên hạng 71 thế giới (tăng 15 bậc chỉ sau hai năm), một bước tiến dài phản ánh hiệu quả của chuyển đổi số trong quản trị công. Đáng chú ý, 100% các tỉnh, thành phố hiện đã có Trung tâm điều hành thông minh (IOC) hoặc Trung tâm chuyển đổi số để giám sát dữ liệu real-time, từ đó hỗ trợ ra quyết định kịp thời. Chính quyền số từng bước chuyển từ “hành chính giấy tờ” sang “hành chính thông minh”, minh bạch và gần dân hơn. Không những vậy, người dân cũng dần trở thành “công dân số”: dùng căn cước gắn chip và VNeID để đi khám bệnh, lên máy bay, ký hợp đồng online; phản ánh kiến nghị qua cổng dịch vụ công và sử dụng các tiện ích số trong đời sống thường ngày. Sự chuyển biến đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở đã tạo nên một bức tranh chính quyền số sôi động, trong đó mọi cấp chính quyền đều chung mục tiêu phục vụ tốt nhất cho người dân, doanh nghiệp trong môi trường số. Nguồn nhân lực chất lượng cao: “Chìa khóa vàng” cho quốc gia số Xác định con người là yếu tố quyết định, Nghị quyết 57 đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn. 6 tháng qua, công tác này đã có nhiều chuyển biến tích cực. Ngay trong tháng 4/2025, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án 1002 về đào tạo nhân lực phục vụ phát triển công nghệ giai đoạn 2025–2035. Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai hàng loạt giải pháp chiến lược nhằm mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo nhóm ngành STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học) và chuyên ngành bán dẫn, AI. Kết quả là 90% cơ sở đại học hiện nay đã tham gia đào tạo các ngành STEM; riêng năm 2024, số sinh viên chính quy theo học lĩnh vực này tăng 10,6% (thêm khoảng 60.000 sinh viên mới, nâng tổng tuyển mới lên 218.000, chiếm 36% tổng sinh viên cả nước). Đáng chú ý, trong năm học 2024 - 2025 đã có xấp xỉ 19.000 sinh viên nhập học vào các ngành liên quan đến công nghiệp vi mạch bán dẫn, chiếm 10% tổng sinh viên STEM, tạo tiền đề cho mục tiêu đào tạo 50.000 kỹ sư bán dẫn đến năm 2030. Chất lượng đào tạo cũng dần tiệm cận chuẩn quốc tế: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng chuẩn chương trình và thẩm định hơn 30 chương trình đào tạo chuyên sâu về bán dẫn tại 8 trường đại học trọng điểm. Cùng với đó, chính sách thu hút nhân tài được ban hành – như học bổng riêng cho sinh viên STEM và tín dụng ưu đãi sau tốt nghiệp cho người học công nghệ cao, AI, bán dẫn… nhằm khuyến khích nhiều bạn trẻ giỏi tham gia lĩnh vực này. Trong lực lượng cán bộ công chức, các chương trình bồi dưỡng kỹ năng số cũng được đẩy mạnh. Bộ Công an tiên phong với phong trào “Bình dân học vụ số”, huấn luyện kỹ năng sử dụng công nghệ cho cán bộ, chiến sĩ và đoàn viên thanh niên ở cơ sở. Tính từ năm 2022 đến nay, hàng trăm nghìn lượt cán bộ, công chức trên toàn quốc đã được đào tạo, tập huấn về chuyển đổi số và an toàn không gian mạng thông qua các khóa học trực tuyến, hội nghị chuyên đề. Bộ Công an còn phối hợp với các địa phương mở nhiều lớp huấn luyện “đặc biệt” cho đội ngũ chuyên trách như khóa đào tạo 1.648 cán bộ nòng cốt về chuyển đổi số trong nửa đầu năm 2022, hay việc tổ chức lựa chọn 1.000 chuyên gia từ các bộ, ngành, địa phương để tạo lực lượng dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia. Về phía ngành khoa học công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tập hợp được 277 chuyên gia hàng đầu về trí tuệ nhân tạo tham gia các chương trình trọng điểm quốc gia về AI, một minh chứng cho sức hút của môi trường khoa học công nghệ Việt Nam đối với nguồn chất xám chất lượng cao. Cùng với đó, ngày càng nhiều sinh viên tốt nghiệp trong nước được các tập đoàn công nghệ toàn cầu tuyển dụng, cho thấy chất lượng nhân lực công nghệ “Made in Vietnam” đang nâng tầm vị thế. Nhìn chung, bức tranh nhân lực công nghệ cao của Việt Nam đang khởi sắc: quy mô đào tạo tăng nhanh, chính sách đãi ngộ cải thiện, và quan trọng nhất là tinh thần ham học hỏi, làm chủ công nghệ lan tỏa rộng rãi trong lớp trẻ. Đây chính là “chìa khóa vàng” bảo đảm cho công cuộc chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo của nước nhà thành công bền vững.

File đính kèm

Tên file Download